Samstag, 17. März 2012

Góc tâm linh




Truyện thứ nhất

Tìm mộ chị tôi




Tác giả:  Trung tướng Trần Độ



1. Tìm mộ chị tôi

Tôi có hai bà chị: Chị cả tên là Tạ Thị Thi, sinh năm 1916 lấy chồng sớm và buôn bán làm ăn. Chị thứ hai là chị giáp tôi tên là Tạ Thị Câu, sinh năm 1919, tham gia hoạt động cách mạng từ 1936, khi có phong trào dân chủ, năm 1939-1940 là Tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Thái Bình. Tôi sinh năm 1923, từ năm 1938, được chị Câu tôi dìu dắt và tham gia hoạt động cách mạng. Chị Câu tôi giới thiệu tôi vào Đảng và tôi được kết nạp năm 1940. Tôi còn có một cô em gái sinh năm 1930 tên là Tạ Thị Xuyến. Năm 1940, ở làng tôi có cuộc mít tinh bí mật ở cánh đồng Đông Lang. Mit tinh bị lộ, tuần phiên và lính phủ (huyện) xông vào đánh và bắt mọi người. Thế là phong trào bị khủng bố. Chị tôi cùng tôi thoát ly gia đình cùng đi làm cách mạng chuyên nghiệp. 





 
 Liệt sĩ Tạ Thị Câu



Sau khi thoát ly, chị tôi rời xa địa phương và hay xuất hiện ở vùng Bắc Ninh và Hà Đông. Tôi đoán là chị tôi làm việc cho xứ uỷ Bắc Kỳ và không biết là làm gì? Khi tôi đã bị bắt, bị kết án 15 năm tù (1941) và bị đầy đi Sơn La (1942) thì tôi được biết chị Câu tôi ở Hoả Lò, hai chị em thường xuyên viết thư thăm hỏi nhau và kể chuyện. Thỉnh thoảng chị tôi còn gửi quà cho tôi. Chị tôi xé áo của mình ra khâu những chiếc khăn tay gửi cho tôi. Chị tôi ở Hoả Lò, ở tù chung với nhiều người, trong đó có chị Nguyễn Thị Minh Thái là vợ trước anh Võ Nguyên Giáp, chị Trương Thị Mỹ sau là Chủ tịch Liên đoàn Lao động Việt Nam, và chị Nguyễn Thị Hằng sau là vợ tôi. Chị Câu tôi bị bắt khoảng năm 1941, tôi không nhớ rõ ngày  tháng, chỉ nhớ rằng những năm tôi ở Sơn La (1942-1943 đến đầu năm 1944) chị em tôi vẫn liên lạc với nhau bằng thư từ.

Thế rồi đầu năm 1944 trên đường bị giải từ Sơn La về Hoả Lò để bị đầy đi Côn Đảo, vào sau Tết đầu năm 1944, thì tôi được Chi bộ nhà tù tổ chức cho trốn thoát để tiếp tục hoạt động cách mạng, tôi không được gặp chị tôi ở Hoả Lò như đã hẹn.

*********

Sau đó chị tôi ốm chết ở Hoả Lò vào ngày 29/09/1944 (ngày này được ghi trong giấy báo tử của chính quyền Pháp gửi cho mẹ tôi, sau khi chị tôi chết, và người làm gia phả họ tôi ghi nhận như vậy.)

Sau Cách mạng tháng 8/1945, tôi được bạn bè gửi cho 3 bức ảnh chân dung của ba người, đó là tôi, chị Câu và chị Hằng - vợ tôi. Ba ảnh này các bạn thu được trong hồ sơ của Sở Mật thám Hà Nội. Tôi vẫn giữ được đến bây giờ.

Chị Câu là chị sát tôi, hơn tôi 4 tuổi nên khi ở nhà (Thư Điền, xã Tây Giang, huyện Tiền Hải) chị tôi thường đi buôn bán các chợ xa phụ giúp cho mẹ tôi nuôi sống gia đình và chăm lo cho tôi học hành. Chị tôi yêu quý tôi lắm, hay mua quà cho tôi và hay tự hào khoe tôi với các bạn bè, lo cho tôi những khi tinh thần tôi khủng hoảng trước tình hình đất nước và dìu dắt tôi tiếp xúc với cách mạng. Khi tôi đã biết cách mạng, chị tôi trực tiếp giao công tác cho tôi và kiểm tra thử thách, khuyến khích, rồi giới thiệu tôi vào Đảng. Lúc đó tôi thường ra sức sao chép các tài liệu của chị tôi. Tôi còn nhớ, tôi chép cho chị tôi mấy cuốn sách và cũng là những nội dung tôi được học tập:

- Chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng do Phan Văn Hùm viết.

- Công tác vận động quần chúng.

- Công tác bí mật.

- Điều lệ Đảng cộng sản Đông Dương.

- Và một cuốn gì đó của Lê-Nin, mà tôi nhớ không rõ Tôi là học trò, chữ đẹp, được chép cho chị tôi, chị tôi cũng khen ngợi khuyến khích tôi nhiều lắm.



*********



Bây giờ tôi không còn nhớ rõ là tôi biết tin chị tôi chết từ bao giờ, (ngày nào, tháng nào). Tôi chỉ biết sau Cách mạng tháng Tám, tôi luôn ngậm ngùi thương nhớ chị tôi, và mỗi khi về nhà gặp mẹ tôi và em gái tôi thì đều nhắc đến chị tôi với lòng thương cảm và xót xa. Tôi rất thương xót chị tôi vì chị tôi không được biết tí gì mùi vị của thắng lợi và đã chết khi còn quá trẻ, chưa có gia đình. Tôi cũng không biết chị tôi đã yêu ai và có người yêu chưa? Có nhiều người hỏi tôi chuyện ấy, nhưng tôi chỉ trả lời: Không biết!



Thế rồi sau Cách mạng tháng Tám, cả nước lại đi vào cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp và tôi bị cuốn vào đó, không có dịp nghĩ gì đến chị tôi nữa. Sau năm 1954, tôi tiếp tục ở quân đội, tôi vẫn say sưa công việc cũng không có ấn tượng gì về gia đình, thỉnh thoảng về thăm mẹ tôi, cũng chỉ biết ngậm ngùi thương nhớ chị, mà cũng không lúc nào nghị đến mồ mả của chị. Sau đó, từ 1964 tôi chuẩn bị đi B và đi B, tham gia chiến đấu cho đến năm 1974. Sau năm 1975, trong tôi hình thành một sự hiểu biết và một tâm lý là: chắc chị tôi bị đau ốm chết trong tù thì chỉ bị chính quyền Pháp chôn cất qua quýt ở đâu đó. Và cái nơi “đâu đó” chắc chắn là ở vùng Hoàng Mai, ở khu vực trường bắn của Pháp mà anh Hoàng Văn Thụ bị bắn ở đó. Tôi không biết và cũng không đến trường bắn đó bao giờ. Nhưng cái địa danh Hoàng Mai đối với tôi rất gần gũi, vì khi anh Hoàng Văn Thụ bị bắn tôi đang làm việc ở báo Cờ Giải Phóng của Đảng. Do anh Trường Chinh gợi ý, tôi có làm một bài thơ “Khóc anh Hoàng Văn Thụ”. Bài thơ lúc ấy được truyền tụng và được học thuộc rất nhiều. Tôi được biết bài thơ đó được có người viết lên một bức tường ở trường bắn nơi anh Hoàng Văn Thụ hy sinh. Sau này tôi được biết thêm, xã có cái trường bắn đó được mang tên xã (sau này là phường) Hoàng Văn Thụ. Tên đó gắn liền với cái chết của chị tôi.

*********

Đến những năm đầu của thập kỷ 90, tôi liên tục được nghe chuyện về các cuộc tìm kiếm mồ mả mà phần lớn là những cuộc tìm các mộ liệt sĩ hoặc là người thân của các gia đình cách mạng. Tôi có được đọc bài viết của anh Nguyễn Thọ Chân, của anh Nguyễn Hùng Phong và nhất là bài viết của anh Trần Phương kể lại quá trình anh nhờ các nhà ngoại cảm và gọi hồn để tìm mộ của người em gái là nữ du kích chết cách đây hơn 50 năm. Tôi còn được đọc một bản báo cáo tổng kết cuộc khảo sát các cuộc tìm mộ của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên. Ông Liên là người chuyên tìm mộ cho các liệt sĩ ở khắp các chiến trường từ Nam ra Bắc đến cả Lào và Cămphuchia. Tôi còn được đọc bản tổng kết khảo sát 97 cuộc gọi hồn của một cô tên là Phương ở Hàm Rồng. Tôi còn đọc nhiều bài đăng ở các tạp chí về 2 người này và việc tìm mộ cứ gắn liền với việc gọi hồn. Tôi cũng đọc những bài báo bác các việc tìm mộ và gọi hồn, cho là mê tín dị đoan, cho là có nhiều sự lừa bịp. Nhưng những lý lẽ của các bài báo này không làm thương tổn được cái sự thật của các cuộc gọi hồn và tìm mộ. Tôi cũng đã trở thành một mục tiêu cho hai báo Tiền Phong và Cựu Chiến Binh tranh luận về việc tôi nhờ nhà ngoại cảm Đỗ Bá Hiệp về quê tôi xác minh hộ mộ ông bố tôi ở quê. Về sau các nhà báo rõ hết sự thật cuộc tranh luận mới yên.

Thế là từ đó trong tôi hình thành một ý muốn, một hy vọng tìm thấy mộ của chị tôi. Trong nhà, em gái tôi cũng là một người gắn bó nhiều kỷ niệm với chị Câu tôi và các con tôi chúng nó đều sinh ra sau khi chị tôi chết, nhất là con trai lớn tôi sinh ra năm 1947, có sống một thời gian ở quê với bà và các kỷ niệm của bác nó là chị Câu tôi, nó rất thương xót bác và rất tận tụy trong việc tìm kiếm.

Tôi nghe nhiều về các nhà ngoại cảm, mà tôi chưa được tiếp xúc trực tiếp bao giờ. Tôi vẫn nhận thức trìu tượng rằng: Đó là những người có những khả năng đặc biệt, nhìn thấy được những gì mà người thường không thấy, nghe được những âm thanh mà tai người thường không nghe được. Khi Đỗ Bá Hiệp về quê tôi xác minh mộ bố tôi, tôi cũng không có mặt. Chỉ có em gái tôi trực tiếp và xác nhận những điều Đỗ Bá Hiệp nói là chính xác.

*********

Tôi có quen với đồng chí Chu Phác, vì khi trước ở Quân khu III, anh Vương Thừa Vũ là Tư lệnh và tôi là Chính uỷ thì anh Chu Phác là thư ký cho anh Vũ. Anh Phác cũng là người giúp tôi nhiều trong việc lo cho hậu phương của tôi trong 10 năm, tôi ở trong B2. Bây giờ tôi gặp lại anh Chu Phác, và được biết anh Chu Phác đang quan tâm nghiên cứu tâm lý học và quen rất nhiều nhà ngoại cảm. Anh Phác cũng là thủ trưởng một trung tâm nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu tiềm năng con người” (bộ môn cận tâm lý), và là Chủ tịch Hội tâm lý giáo dục. Với tình thân cũ, tôi ngỏ ý muốn nhờ anh Phác giúp đỡ tìm các nhà ngoại cảm giúp cho việc tìm mộ chị tôi. Qua các câu chuyện, tôi thấy anh Phác quen biết rất nhiều nhà ngoại cảm nổi tiếng: như anh Liên, cô Bích Hằng, cô Phương (Thanh Hoá), anh Nhã ở Thành phố Hồ Chí Minh ...v.v...

Và anh Chu Phác đã đồng ý sẵn sàng giúp tôi.

Trước đó, khoảng (1996-1997) nhờ một người bạn tôi giúp đỡ tôi đã liên hệ điện thoại được với anh Liên ở Hải Dương và bằng điện thoại gặp được với bà Cườm cũng ở Hải Dương. Qua điện thoại, tôi chỉ nói và nghe được vài câu. Tôi nói: “Tôi có một bà chị bị tù ở Hỏa Lò và ốm chết trước Cách mạng tháng Tám, không biết bây giờ mộ ở đâu?” Anh Liên thì nói “Còn mộ đấy, có thể tìm được”. Bà Cườm thì nói: “Ông đứng ở trước cửa Hỏa Lò, chiếu thẳng về hướng Nam, cách độ hơn 1 km đến 2 km thì mộ còn ở vùng đó đấy. Nhưng sợ rằng bây giờ nhiều nhà cửa đã xây lên, nếu mộ đó mà dưới nền các ngôi nhà đã xây thì khó tìm đấy”. Tôi đối chiếu bản đồ thì thấy rõ khu vực bà Cườm chỉ là ở vào vùng Bạch Mai, Hoàng Mai.

*********

Anh Phác rất bận và tôi ít được gặp. Mãi đến giữa năm 2000 tôi mới liên hệ được với Chu Phác, tôi cũng chỉ tính nhờ Chu Phác môi giới cho tôi được gặp Phan Thị Bích Hằng, để nhờ gọi hồn và tìm mộ chị tôi. Tôi có nghe nói nhiều đến cô Phương ở Hàm Rồng. Còn Phan Thị Bích Hằng thì tôi được nghe kể về nhiều thành tích tìm mộ liệt sĩ của cô, nổi nhất là cuộc tìm mộ liệt sĩ ở Non Nước (Ninh Bình). Nhưng anh Chu Phác cho là tôi không thể ăn trực nằm chờ lâu ở Hàm Rồng được. Nhưng anh Phác hứa sẽ tìm cách giúp tôi theo một phương pháp mà anh đã làm ở nhiều cuộc. Phương pháp đó đại khái như sau:

Việc tìm mộ phải tiến hành nhiều bước:

Bước một. Nhờ một số nhà ngoại cảm, mỗi người độc lập nhận thông tin, rồi phát biểu những thông tin thu nhận được về bà chị tôi. Có cuộc đối chiếu các nguồn thông tin độc lập đó lại với nhau và tìm một đáp số đúng nhất.

Bước hai. Tiến hành một số thử nghiệm theo phương thức ngoại cảm, nghĩa là có những cách thử nghiệm bí ẩn.

Bước ba. Sau khi thống nhất được các thông tin để có một thông tin chính xác và có sự thử nghiệm rồi mới tiến hành làm các thủ tục để khai quật. Khi khai quật vẫn phải có các nhà ngoại cảm trực tiếp hoặc gián tiếp (qua điện thoại) theo dõi và hướng dẫn điều chỉnh, cho đến khi tìm được hài cốt cụ thể.

*********

Diễn biến thực tế các bước thực hiện.

1/ Ngày 4/8/2000, một nhà ngoại cảm tên là Nguyễn Khắc Bảy, một thanh niên trẻ mảnh khảnh đến nhà tôi (ở 97 Trần Hưng Đạo). Anh ngồi trước mặt, đối diện với tôi và chăm chú nhìn tôi, hỏi tôi đôi điều rồi lấy giấy bút vẽ một sơ đồ. Tóm tắt những thông tin mà anh Bảy cho biết là mộ chị Câu tôi còn và nằm gần mộ ông Hoàng Văn Thụ, trong vùng bãi bắn Hoàng Mai, thuộc xã Hoàng Văn Thụ. Mộ bà Câu ở bên cạnh một vũng nước, trong một khu vực có nhiều mộ và có những bộ hài cốt đã rời đi.

Khu vực này có những công trình kiến trúc lớn như đình, chùa, trường học, xưởng máy và đường xá ngoằn nghoèo.

2/ Ngày 25/11/2000, anh Chu Phác và một nhà ngoại cảm khác tên là Dương Mạnh Hùng đến nhà tôi. Anh Hùng là một thanh niên to béo khoẻ mạnh. Anh Hùng ngồi cạnh tôi, nắm tay tôi (về sau tôi được biết như thế là “bắt mạch thái tố”).

Anh Hùng hỏi tôi mấy câu về thân thế, rồi hỏi: “Trong nhà bác có ai là một người nữ mà chết lúc còn rất trẻ không?” Tôi trả lời là “Có. Và đó chính là bà chị tôi, mà nay tôi muốn tìm mộ đấy”. Đến đây, anh Hùng nhìn chăm chú vào khoảng không trong một góc phòng và xin tôi tờ giấy trắng và cái bút rồi anh ấy lẩm bẩm: “Đã xuất hiện đấy. Bà ấy đã xuất hiện đấy” và anh phác ra một khuôn mặt trên một tờ giấy. Từ đấy, anh Hùng cứ nắm chặt tay tôi và nhìn chăm chú vào góc phòng và bắt đầu nói chuyện. Tôi muốn rút tay ra, nhưng anh Hùng không cho và nói rằng “Tôi rời tay bác ra thì bà ấy biến mất”.

Và cũng từ đây cuộc nói chuyện diễn ra giống như anh Hùng nói chuyện với một người vô hình. Anh hỏi và được người vô hình ấy trả lời, anh lại nói lại cho tôi biết. Tóm tắt, những thông tin thu được là:

Bà Câu là một người con gái trẻ đẹp, to béo, bị ốm, phù rồi chết. Mộ bây giờ ở một nơi giống bãi tha ma, muốn đi tới, phải qua những con đường ngoằn nghoèo, có tên là Bạch Mai, Trương Định, Hoàng Mai. Mộ ở gần một cái chùa và một cái đình, gần một hàng nước mà ông chủ là một ông già độ 60 tuổi tên là Trúc, bà vợ tên là Thu. Vong bà Câu hay về nhà ông Trúc. Dân quanh đấy có làm nghề đậu phụ, gần một cái chợ. Mộ bà Câu ở gần một cây hoa râm bụt đỏ, có một cây hoa trinh nữ trắng, gần một bãi phẳng như một bãi bóng...

Bà Câu chết vào năm Giáp Thân, tức 1944, vào mùa thu, tháng 8, vào đêm 26 rạng ngày 27 (âm lịch).

Về ngày tháng chết này thì ở trong gia phả họ Tạ ở Tây Giang ghi là 29/9/1944 (theo giấy báo tử của chính quyền thực dân Pháp gửi về cho bà mẹ bà Câu).

Đối chiếu lịch vạn niên thì ngày 29/9 dương lịch ứng vào ngày 13/8 âm lịch năm 1944 (Giáp Thân). Một nhà ngoại cảm tên là Tô Xuân Đạo thì nói ngày chết của bà Câu vào tháng chẵn, ngày lẻ (vận ngày 13 hay 27 cũng là ngày lẻ, chưa xác định lại được ngày nào). Theo trí nhớ của vợ tôi là Nguyễn Thị Hằng, lúc đó cùng ở tù với chị Câu, thì bà Hằng nói: Một buổi sáng, bà Hằng đến làm vệ sinh ở chỗ bà Câu thì thấy bà Câu đã chết cứng. Tức là bà Câu chết vào lúc gần sáng. Bà Hằng có nói, bà Câu chết năm trước thì năm sau Nhật đảo chính Pháp, và tiếc rằng bà Câu không sống thêm mấy tháng nữa để trốn khỏi nhà tù. Năm sau là 1945, vậy năm trước đúng là năm 1944 (Giáp Thân). Hài cốt bà Câu còn được một chứng tích đó là hàm răng đen của bà, bị gãy mất một cái. Bà rất đồng ý cho bốc hài cốt của bà và đưa về quê hương. Hùng hai lần hỏi bà câu này và hai lần đều nói lại với chúng tôi là bà gật đầu.

Qua buổi này, tôi rõ ràng được trực tiếp mục kích sự hoạt động của nhà ngoại cảm: Đó là người có những khả năng đặc biệt mà người khác không có. Đó là họ nhìn được những gì mà người khác không thấy. Họ nghe được những âm thanh mà người thường không nghe được, không phải nghe bằng tai mà họ nghe thấy ở trong đầu. Họ có khả năng nhìn được xa, nhìn được những vật thể bị lấp sau rất nhiều vật ngăn cách. Vì vậy, họ có thể vẽ lại sơ đồ những vùng đất cách xa họ hàng nghìn cây số mà bản thân họ cũng chưa đến bao giờ. Những nhà ngoại cảm mà chúng tôi đã gặp gỡ trong cuộc tìm kiếm này đều tỏ ra có nhiều khả năng. Họ có thể dự báo dự đoán (và ta vẫn gọ là xem bói), họ có thể nói tiền vận, hậu vận, gia thế và thân phận của người gặp. Nhiều người có khả năng tiếp xúc, giao thiệp với các vong hồn mà họ cầu xin tiếp và gặp. Những vong hồn này lại có thể cho họ biết nhiều thông tin quan trọng.

3/ Ngày 26/11 và 27/11, anh Chu Phác đi cùng Nguyễn Khắc Bảy và Dương Mạnh Hùng đến làng Hoàng Mai tìm đến chùa Nga My và đình làng Hoàng Mai (nơi thờ Trần Khát Chân) và tìm đến khu vực nghi thờ có mộ bà Câu. Ngày 27/11, anh Chu Phác cùng với 3 người: anh Bảy, anh Hùng và cô Thẩm Thuý Hoàn ghé nhà 97 Trần Hưng Đạo, báo cho tôi biết là các anh đi đến thực địa để kiểm tra lại những tin tức về địa hình đã thu nhận được.

Cô Hoàn nói thêm là hài cốt bà Câu nằm chếch, đầu gối vào một cột trụ, bị cột trụ đè lên một ít, chân ở phía đường đi.

Mấy người thấy rõ ở thực địa, đình, chùa, bãi phẳng và một khu trống độ mấy chục mét vuông trong đó có rất nhiều mộ và có mộ bà Câu nằm ở một vị trí bên cạnh một vũng nước, cách 1 cây đại hoa trắng (3-4m), cây đại cao hơn bức tường bao quanh, cạnh 1 bụi cỏ khô (cách 1m-1m50). Bụi cỏ khô này ở trên một cái thùng phuy cao độ hơn 1 mét. Mộ chỉ là một mô đất cao độ 10-20cm nằm ở gần một đầu trường và bên cạnh con đường xi-măng nhỏ. Địa điểm này ở sau đình và gần chùa.

4/ Cô Bích Hằng có tham gia vào cuộc tìm kiếm này. Ngày 26.11.2000, Bích Hằng nói ở văn phòng 46 Nguyễn Văn Ngọc: Đến làng Hoàng Mai, hỏi chùa Nga My cách một vườn vài chục mét.

Ngày 1.12.2000, Bích Hằng nói thêm: Mộ ở nơi đất bằng phẳng cạnh gốc cây chuối gần chùa Nga My và đền thờ Trần Khát Chân, có cây hoa đại, mộ nhìn lên hàng rào dây thép gai, ở đầu nhà. Bà Câu mặt bị sưng to và nằm nghiêng, sâu độ 70-90cm. Mộ không có tiểu khi đào phải cẩn thận.

5/ Ngày 13.12.2000, con cả tôi là Trần Thắng, sinh năm 1947, sinh sống ở TP Hồ Chí Minh. Tôi gọi cháu ra để làm chủ lực trong cuộc tìm kiếm này thay tôi, tôi đau ốm không đi lại được. Hồi đầu tháng 11/2000, Thắng đưa tôi từ TP Hồ Chí Minh ra Hà Nội đã biết có cuộc tìm kiếm này, và rất quan tâm hỏi han nhiều. Thắng cũng tỏ ra rất thương xót bà bác ruột của mình. Trong dịp đó, Thắng cũng trực tiếp gặp anh Chu Phác và được anh Chu Phác bàn bạc kế hoạch tìm kiếm. Tôi hẹn cháu ra Hà Nội vào ngày 11 hoặc 12 tháng 12. Nhưng cháu liên hệ với anh Chu Phác, và anh Chu Phác yêu cầu Thắng phải liên hệ với anh Nguyễn Văn Nhã, một nhà ngoại cảm ở TP Hồ Chí Minh.

Ngày 10.12 dương lịch, Nguyễn Văn Nhã đáp ứng yêu cầu của Thắng, nói mấy chi tiết cụ thể (qua điện thoại):

A/ Vị trí của mộ đúng như các nhà ngoại cảm ở Hà Nội đã nói.

B/ Cách mộ độ hơn 3m về phía Tây có 1 cây hoa đại, hoa trắng cao 3m.

- Cạnh mộ, cách 1m50 có bụi cỏ khô cao hơn 1m.

- Trên mộ có 3 mảnh thuỷ tinh hoặc sành lấp lánh.

- 5 hôm nữa, anh đến thì cách mộ mấy mét có con gà trống kiếm ăn ở đó.

- Mộ gần vũng nước.

Thắng ra đến Hà Nội này 13.12.2000 và ngay lập tức Thắng hoạt động ráo riết để thúc đẩy cuộc tìm kiếm đi tới kết quả. Từ 13.12, Thắng rất nhiều lần xuống thực địa vùng nghi là có mộ bà Câu để khảo sát địa hình và đối chiếu với những gì các nhà ngoại cảm Hà Nội và Nguyễn Văn Nhã đã nói. Thắng liên hệ nhiều với những dân cư làm nhà thành xóm ở chung quanh cái bãi có mộ bà Câu và hỏi thăm được rất nhiều tin tức cần thiết cho việc tìm kiếm và bốc mộ.

Ngày 14.12.2000, đúng sau 5 hôm đúng với ngày Thắng nói với anh Nguyễn Văn Nhã ở TP Hồ Chí Minh (tức là từ ngày 10/12 đến ngày 14.12), Thắng đến thực địa thì quả có thấy một con gà trống xuất hiện ở chỗ mà anh Nhã nói. Con gà này vốn thường bị nhốt trong chuồng gần đó. Nhưng đúng ngày đó, nó lại ra ngoài và đi chơi. Nó xuất hiện một lúc, rồi nó lại về chuồng. Hôm ấy anh Chu Phác cùng đi với Thắng và cũng cùng thấy con gà trống ấy.

6/ Có một việc thu hút người tham gia nữa là: anh Chu Phác giới thiệu và gia đình tôi có cô em gái tôi và cháu Thắng là hai người ruột thịt của bà Câu tìm đến bà Lương Thị Thanh Hà, người có khả năng gọi hồn, nhờ gọi giúp chị Câu về để gia đình nói chuyện.

Ngày 15.12.2000, cô Xuyến và Thắng đã đến gặp bà Thanh Hà. Qua cuộc bà Hà tiếp xúc với vong hồn chị Câu và cho biết: chị Câu bị chết trong một hoàn cảnh đau đớn và khổ nhục lắm. Chỗ mộ đang tìm là đúng mộ bà Câu rồi, cần phải gấp rút tìm cách đưa về quê. Việc đưa về quê phải tiến hành long trọng đầy đủ. Bởi vì khi sống là cán bộ quan trọng, nay cũng là người quan trọng ở dưới âm. Việc đưa đón không được sơ xuất.

7/ Nhiều lần tôi cũng muốn đến nơi để xem xét tình hình, nhưng mọi người đều nói đường hẹp, ngoằn nghoèo khó đi, tôi chưa đi được, nhưng có Thắng cho biết xe vào được đến đình Hoàng Mai và từ đình ra chỗ đó mất 100m. Tội tự thấy mình đi được. Vậy là một hôm, khoảng 18.12, tôi cùng Thắng đến chỗ đó. Tôi đã được nhìn thấy chỗ nghi là mộ chị Câu, tôi đến thắp hương và khấn chị. Tôi thấy rõ tận mắt và nhớ kỹ:

Mộ là một mô đất cũ, đất đã đen, cạnh con đường xi măng nhỏ, gần một đầu tường cụt và bên cạnh một vũng nước dài đến 2m, rộng khoảng 1m. Con đường đi từ một nhà dân ra chỗ này. Đây là một khoảng trống độ 30m2, chung quanh có tường và nhà che kín hết. Nhà dân mà chúng tôi ghé nhờ làm bàn đạp để đi ra mộ là nhà chị Ngà. Chị ấy rất quen thuộc với các cuộc tìm kiếm và bốc mộ ở đây và cho nhiều lời khuyên bổ ích. Cái vùng mấy chục thước vuông này còn rất nhiều mộ, độ một chục mộ đã dựng bia đầy đủ. Tôi quan sát và tôi thấy rõ được ngọn cây đại nhô lên từ bức tường hướng ở Tây, cách mộ chị tôi hơn 3m, tôi thấy rõ lùm cỏ khô ở trên cao hơn 1m, vì lùm cỏ này mọc trên một cái ống xi măng dựng đứng.

Tôi trao đổi với Thắng và Chu Phác, xác định là: - Địa điểm mộ chị Câu coi như đã xác định được, hơn 90% rồi. Đến lúc này tất cả các thông tin về địa hình và đường dẫn ngôi mộ, tất cả các địa tiêu chung quanh mộ đều được chỉ ra thống nhất, tuy cách diễn đạt có khác nhau và có đôi chút sai lệch. Nhưng đặc điểm về địa điểm cụ thể của ngôi mộ thì đều thống nhất cả. Tôi cũng đã tận mắt nhìn thấy hình thù đất chỗ ngôi mộ. Cần phải tổ chức bốc mộ sớm. Trong khi bốc sẽ nhờ các nhà ngoại cảm theo dõi và điều chỉnh cho việc khai quật đạt được trúng mục tiêu.

Anh Phác còn muốn làm một thử nghiệm nữa, yêu cầu Thắng bốc nắm đất ở giữa nơi nghi là mộ và vài nắm đất ở chung quanh đem về Thái Bình (Vũ Thư) nhờ một ông thầy xác định hộ. Nghe nói việc xác định này chính xác lắm. Thắng gấp rút đi Thái Bình ngay, nhưng đến nơi thì ông thầy có thiện ý ưu tiên cho mộ liệt sĩ (chị Câu là liệt sĩ) nhưng ông thầy đông khách quá, những khách đã chờ lâu cũng có đến dăm chục. Thắng thấy tình hình là phải chờ thì phải chờ đến 15-20 ngày, hoặc ít nhất và được ưu tiên chăng nữa cũng phải mất hàng tuần, Thầy lại còn bận nhiều loại lễ lạt khác nữa. Nên Thắng đã trao đổi với anh Chu Phác và xin thôi không làm thử nghiệm nữa. Vì rằng căn cứ vào những thông tin đã có, ta có thể chắc chắn đến hơn 90% rồi, đặc biệt là anh Nhã ở TP Hồ Chí Minh mà cũng cho những thông tin trùng với Hùng, Bẩy, Hằng ở Hà Nội.

Năm sắp hết, Tết sắp đến, nếu không khẩn trương thì việc kéo dài đến sang năm mất.

Thắng cũng không thể ở Hà Nội thời gian quá dài được.

8/ Sau khi cân nhắc, thì cả tôi và anh Phác, Thắng đều chọn hai thời điểm để tiến hành bốc mộ, và đó là rơi vào những ngày tốt, việc bốc mộ tiến hành sẽ được thuận lợi.

Đó là ngày 20-21 tháng 12 dương lịch tức 25-26 tháng 11 âm lịch. Lúc này đã là 18-19/12 rồi, sợ gấp quá, không chu đáo được. Vì thế chúng tôi chọn thời điểm thứ hai tức là ngày 27.12 dương lịch tức là mồng 2 tháng chạp âm lịch.

*********

Ngày 27.12.2000, tức 02 tháng Chạp năm Canh Thìn. Cả nhà tôi tập trung xuống mộ, thuê người khai quật. Việc khai quật được tiến hành lúc 9 giờ sáng là giờ tốt. Anh Phác cũng có mặt và chỉ đạo.

Sau đó việc khai quật phải tạm dừng vì không thể tiến hành khi có mặt trời soi, sợ sẽ tổn thương đến hài cốt. Đến 5 giờ chiều (17 giờ) việc khai quật lại tiếp tục. Đến 20 giờ thì đã đào sâu được 60-70cm và huyệt bị nước mạch trào vào, phải dùng máy bơm, vừa bơm vừa tát nước vừa đào, vẫn chưa thấy được dấu tích gì.

Lúc này tôi hơi hoang mang, vì tôi vẫn lo rằng khi đào thực địa, có thể lại có sai lệch, mà không tìm được trúng mộ chị tôi, như nhiều trường hợp khác, tôi đã đọc thấy.

Lúc này bên cạnh chúng tôi, không có nhà ngoại cảm nào để hỏi ý kiến. Bích Hằng thì đi xa Hà Nội, không có liên hệ, các người khác thì đều vướng bận (hoặc đi học, hoặc đi công tác).

Nhưng những người tham gia đào thì là những người đã đào nhiều và cũng đào nhiều ở vùng này và cho biết: Họ có khả năng xem xét hài cốt mà khẳng định được hài cốt nam hay hay hài cốt nữ hoặc cỡ to nhỏ của các cháu ở chỗ đào về cho tôi biết là đã đào sâu hơn 2m và đã chạm vào một cái tiểu sành. Lúc này Thắng nhớ lại những thông tin của bà Phượng ở Đại Kim. Bà Phượng nói:

- Địa điểm mộ là đúng rồi.

- Hài cốt còn và ở trong hòm gỗ, hòm đã vỡ.

- Phải đào sâu khoảng 1m80 đến 2m, mới tìm thấy.

Tôi lại càng hồi hộp. Vì tất cả các nhà ngoại cảm không ai nói được rằng chị tôi đã có nằm trong tiểu. Bích Hằng chỉ nói khi chị tôi chết thì người bị phù và bị chôn nằm nghiêng. Những người khác thì người nói chị tôi bị chôn trong hòm gỗ, người thì bảo không có hòm.

Tôi thì tôi suy đoán: Khoảng những năm 40 ấy thân phận một người tù (mà lại tù Cộng sản) thì khi chết không thể được chôn cất chu đáo. Nhiều lắm thì cũng có motọ áo quan gỗ tạp, và rất có thể là một bó chiếu. Có thể không đến nỗi nhếch nhác như những người chết đói năm 45 hoặc những người bị tàn sát bởi bom đạn và càn quét. Vì tôi vẫn chờ đợi rằng thi hài chị tôi sẽ chỉ là những nắm bùn đất đen ngòm lẫn xương với đất. Cần phải nhặt nhạnh từng mảnh xương. Và sẽ cố gắng tìm hàm răng đen mà tôi tin chắc là của chị tôi.

Sau này Thắng có cho tôi biết là anh Nhã có nói là anh linh cảm thấy rằng hài cốt của chị Câu có thể còn nguyên vì anh thấy tín hiệu phát ra mạnh lắm và tín hiệu mạnh ấy làm nhiều người ngoại cảm đều có thể tìm thấy địa điểm của ngôi mộ.

Lúc này anh Phác có liên hệ điện thoại được với anh Nhã ở TP Hồ Chí Minh. Anh Nhã lúc 16 giờ có hướng dẫn:

- Đào sâu 60-70 cm nữa.

- Đào chếch về phía người mặc áo xanh nhạt.

- Đào về phía rãnh nước.

Thẩm Thúy Hoàn lúc 9 giờ 30 cũng đến xem chỗ đào và xác nhận là đào đúng chỗ rồi, lúc 16 giờ 10 qua điện thoại, cô Hoàn cũng hướng dẫn thêm:

- Đào về phía rãnh nước.

- Đào sâu đến hơn 2m.

- Đào vuông thành sắc cạnh, đừng đào lòng chảo.

Bà Lương Thị Thanh Hà cũng khẳng định chỗ đào đúng rồi và bà cam đoan: Tôi nói tôi chịu trách nhiệm.

Lúc 21 giờ 30, khi anh Nhã được thông báo là đã đào chạm tiểu, thì anh Nhã cho biết: Trước đây có gia đình họ đã đào để tìm mộ nhà họ, nhưng họ thấy nhầm lẫn nên họ đã đưa hài cốt bà Câu vào tiểu và chôn lại cẩn thận tử tế. Thông thường ở nhiều nơi cũng có việc làm như vậy.

Cũng lúc này anh Nhã còn nhắc nhở là phải khấn các vong linh phù hộ cho bớt nước ở các mạch tràn vào huyệt. Con tôi, Thắng có cho tôi biết: Thắng có thực hiện sự khấn vái và quả là nước có bớt đi, có giảm sức tràn vào huyệt, việc đào bới tiếp tục và được thuận lợi hơn.

Các người dân chung quanh chỗ đào đã chứng kiến nhiều cuộc đào nhầm, cũng đã khẳng định rằng: Có như vậy. Cái tiểu đựng hài cốt chị Câu là cái tiểu có tuổi thọ khá cao cách đây mấy chục năm rồi. Đó là phong tục thông thường của dân ta.

Vậy là hài cốt chị Câu còn gần như nguyên vẹn. Xương sọ còn nguyên và rất to (lúc ở nhà chị tôi là người cao lớn và béo tốt) hai hàm răng còn gần như đủ và là răng đen.

Những người đào khi bốc hài cốt, có nhận xét là xương chân tay to thế này là xương của người to lớn. Và khi đưa ảnh của chị Câu cho họ xem họ đối chiếu với xương sọ, thì họ bảo là rất khớp và đúng đây là mộ bà Câu.

22 giờ 30 thì mọi sự chuyển cốt sang tiểu mới quách mới, có rửa nước thơm, ướp trà thơm và bọc trong vải đỏ đầy đủ, đã hoàn thành xong xuôi.

Sau đó Thắng và em là Quang, cùng một cháu trong họ về lấy ảnh, lấy bia khắc sẵn và bát hương đưa bà Câu đi ngay về Thái Bình.

Thế là việc tìm mộ và bốc mộ chị Tạ Thị Câu nhà tôi hoàn thành vào 24 giờ ngày 27.12.2000 tức 02 tháng chạp Canh Thìn.

Gia đình tooi hoàn thành được việc quy tập các hài cốt Bố tôi, Mẹ tôi, Chị tôi về quê ở làng xã quê quán. Chị tôi được chấm dứt 56 năm bơ vơ đất khách.

Ngày 28.12.2000 tức 03.12 Canh Thìn, hài cốt chị Câu được để ở nhà lễ truy điệu được cử hành và hài cốt được đưa ngay đến nghĩa trang trung tâm huyện.

Cả nhà tôi sung sướng.

Cả họ tôi vui mừng.

Cả làng tôi đều vui vẻ.

Lễ tang đã tiến hành trọng thể nơi ngôi nhà và miếng đất chị tôi đã được sinh ra và lớn lên trong ngày 28.12.2000.

Gia đình tôi làm xong được một việc lớn, giải toả được nỗi ân hận của tôi, em tôi và con tôi từ mấy chục năm nay. Tôi rất chân thành cảm ơn anh Chu Phác và các nhà ngoại cảm: Nguyễn Khắc Bảy, Dương Mạnh Hùng, Thẩm Thuý Hoàn, Phan Thị Bích Hằng, Nguyễn Văn Nhã, Tô Xuân Đạo, và cả anh Nguyễn Văn Liên, bà Cườm, chị Lưong Thị Thanh Hà, chị Nguyễn Thị Phượng là những người đã góp sức giúp gia đình tôi việc này.

*********

Tôi nhận thấy các nhà ngoại cảm có khả năng đặc biệt là có thật. Tôi được đọc, được nghe nhiều, tôi thấy đây là một sự thật. Và sự thật đó là có rất nhiều người có tài lạ. Tài lạ đó, ta nghe lần đầu thì coi như không thật. Vấn đề là hiện nay mọi người nên đối xử với những tài lạ này như thế nào? Không thể có kiểu bác bỏ một cách thô thiển và giản đơn, cũng không thể nguỵ biện để bác bỏ. Mọi ngụy biện sẽ đều sụp đổ trước sự thật hiển nhiên.

Các thông tin, các nhà ngoại cảm thấy không thể lúc nào cũng chính xác và chính xác 100%. Vì sự thu nhận của họ (trông thấy và nghe thấy) cũng có nhiều yếu tố thời gian và không gian tác động. Trường hợp của tôi, tôi thấy có nhiều chi tiết sai lệch nhau và không đúng hẳn. Nhưng những thông tin đúng và khớp nhau thì nhiều.

Riêng tôi, tôi thấy tôi có đủ căn cứ và nhất là linh cảm thấy có một sự tin tưởng vững chắc vào khả năng của các nhà ngoại cảm.

Tôi thấy đó là những năng lực lớn không phải chỉ có ích cho sự tìm mộ và gọi hồn để giải quyết những vấn đề gia đình. Mà rất có thể huy động những năng lực này vào việc xây dựng đất nước về văn hoá, chính trị, nhưng không nên và không được phép vì bất cứ lý do gì mà bài bác, mà kỳ thị và thậm chí cấm đoán.

Có tài Lạ (ngoại cảm, chữa bệnh) mà có một người dân biết đến, là cần có chính sách đối đãi và sử dụng, chứ không thể kiếm cớ “không có giấy phép” để ngăn ngừa cấm đoán. Chỉ có cuộc sống và nhân dân là người phán xét chính xác và công bằng hơn nhiều cơ quan “có quyền cho giấy”.

Ngày 30.12.2000

Tức ngày 5 tháng chạp Canh Thìn
Trần Độ
(97 Trần Hưng Đạo - Hà Nội)
ĐT: 9.424673

------------------------------------

Chú thích:

- Hiện nay tôi còn có băng ghi âm cuộc nói chuyện của Dương Mạnh Hùng và băng ghi âm cuộc nói chuyện (gọi hồn) của chị Lương Thị Thanh Hà với em gái tôi.

- Tôi cũng có một băng ghi hình cuộc khai quật hài cốt chị Câu và tang lễ ở quê nhà. 






                                    


                                                   ------------------------

Truyện thứ hai

Kỳ 8: 84 năm, hai thế hệ đi tìm mộ cha, ông



Bích Hằng đang trò chuyện với vong linh cụ Quyến
Sinh thời, Lương Ngọc Quyến có với người vợ thứ 2, bà Nguyễn Thị Hồng Đính, 3 mặt con: Lương Dân Nguyên, Lương Tân Khải và Lương Cao Vinh. Cả ba cậu con trai, bà Đính đều sinh hạ tại Trung Quốc. Năm 1917, sau khi Lương Ngọc Quyến hy sinh, bà gửi đứa con thứ 2 là Lương Tân Khải cho một phụ nữ Trung Quốc nuôi dùm rồi đưa 2 con Nguyên và Vinh về nước. Mất cha từ lúc tuổi còn thơ nhưng hình ảnh của cha với khí phách của một người anh hùng trọn đời hy sinh vì dân vì nước vẫn hiện hữu trọn vẹn, trở thành niềm tự hào trong tâm hồn hai cậu bé qua lời kể của mẹ. Sau này, trưởng thành, nỗi đau mất phần mộ cha trở thành nỗi ám ảnh, thôi thúc Nguyên và Vinh đi tìm. Nhưng hoàn cảnh thời ấy, chiến tranh thì liên miên, hết chống Pháp rồi đánh Mỹ, gia cảnh thì nghèo túng, Thái Nguyên thì mênh mông đồi núi, tin tức về cha gần như chẳng có, việc tìm mộ chẳng khác gì “mò kim đáy bể”. Năm 1967, ông Lương Cao Vinh lâm trọng bệnh mất. Gánh nặng tìm mộ cha dồn cả lên vai ông Nguyên. Năm lần bảy lượt đi tìm chẳng được. Năm 1993, tuổi cao sức yếu, ông Nguyên cũng ra đi. Trước khi mất, lời trăn trối cuối cùng với cậu con trai thứ Lương Quân vẫn là nỗi canh cánh trọn đời về phần mộ cha Lương Ngọc Quyến: “Con gắng thay cha tìm mộ ông. Bằng mọi cách phải tìm cho được. Bố linh cảm mộ ông được chôn gần một ngôi chùa nào đó trên Thái Nguyên”.
Thấu hiểu nỗi đau của cha. Nhưng biết tìm mộ ông ở đâu bây giờ? Năm 1994, qua báo chí, ông Quân biết đến khả năng tìm mộ đặc biệt của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng. Bấy giờ, tên tuổi của Bích Hằng đã vang dội cả nước qua hàng ngàn vụ tìm mộ, nhất là vụ tìm mộ tập thể 13 liệt sĩ ở Non Nước (Ninh Bình) và 5 mộ liệt sĩ ở Đông Triều (Quảng Ninh). Qua sự giới thiệu của ông Nguyễn Văn Huy, giám đốc Bảo tàng dân tộc học, quãng giữa tháng 4 năm 1994, ông Quân tìm đến nhà riêng của Bích Hằng ở Khu tập thể binh đoàn 11 (Nam Đồng, Đống Đa, Hà Nội) cùng bức ảnh truyền thần của ông nội Lương Ngọc Quyến được vẽ lại từ bức ảnh chụp của Sở mật thám Pháp khi ông Quyến bị cầm tù. Bích Hằng, sau khi thắp hương mời vong cụ Quyến về, cho biết: hình ảnh cụ hiện lên rất mờ, thông tin nhận được rất ít. Cụ nói, mộ cụ vẫn còn nhưng cốt không còn nhiều, được chôn gần một ngôi chùa nào đó ở Vô Tranh, huyện Phú Lương hay Phú Bình gì đó. Địa điểm không rõ lắm nên gia đình cứ lên đó mà tìm, hy vọng sẽ có người biết mà chỉ dùm.
Vài ngày sau, ông Quân tìm đường lên Thái Nguyên. Xem bản đồ, chỉ có xã Vô Tranh thuộc huyện Phú Lương. Ông bèn nhờ người cậu ruột, nguyên là cán bộ quân khu Việt Bắc giới thiệu với ông trưởng thôn Thống Nhất, xã Vô Tranh dẫn đi tìm. Phú Lương ngày ấy rừng núi còn rậm rạp, hoang vu, nhà nọ cách nhà kia một quả đồi. Sục vào từng nhà, gặp gỡ các cụ cao niên trong làng để hỏi nhưng chẳng ai biết gì về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917, huống hồ là thông tin về phần mộ cụ Lương Ngọc Quyến. Bác trưởng thôn đưa ông Quân đến hai ngôi chùa trong xã. Một ngôi có tên là chùa Lụa nằm trên một quả đồi nhưng đã đổ nát hoàn toàn, chỉ còn lại những hòn đá kê chân cột. Xung quanh là rừng nứa ngút ngàn. Dưới chân đồi có một gia đình người Thái Bình lên khai hoang lập nghiệp từ những năm 1950. Hỏi về cụ Quyến, họ lắc đầu nguây nguẩy không biết, lại còn nghi ngờ ông Quân đi tìm đồ cổ. Ngôi chùa thứ hai cũng toạ lạc trên một sườn đồi, bạt ngàn sắn. Ông trưởng thôn cho biết, ngôi chùa này đã bị cháy lâu lắm rồi, do Pháp đốt. Nền chùa chính là chỗ đã mọc lên cây ngái to cỡ một người ôm. Người chủ nương sắn đã đan một tấm liếp nhỏ, dưới đặt bát hương để cúng vái thần linh vào những ngày rằm, mồng một. Đến hai ngôi chùa, ông Quân đều thành tâm thắp hương cầu nguyện, đi xung quanh quan sát địa hình kỹ lưỡng, hy vọng tìm thấy một dấu hiệu nào đó nhưng vô vọng.
Trở về Hà Nội, ông gặp Bích Hằng, kể lại chuyện lên Thái Nguyên tìm mộ cụ Quyến. Bích Hằng khuyên ông nên nhẫn nại, kiên trì. Chị khẳng định mộ cụ còn nhưng hiện thời chị chỉ giúp được thế. Sau đó, ông Quân có đến gặp Bích Hằng vài lần nữa nhưng cùng không thu được thông tin gì mới. Cũng trong thời gian ấy, anh em ông Quân có nhờ một số nhà ngoại cảm tiếng tăm khác như ông Đỗ Bá Hiệp (Hà Nội), ông Tư Liên (Đà Nẵng)  nhưng sự việc cũng chẳng sáng sủa gì. Giữa lúc tưởng chừng bế tắc, không còn một tia hy vọng gì thì ông Quân bất ngờ nhận được tin nhắn của Bích Hằng: đã có thông tin về phần mộ cụ Lương Ngọc Quyến. Ngay lập tức, ông Quân cùng ông Cơ, người em con ông chú ruột, vội vã đến nhà Bích Hằng. Chị vui mừng thông báo: chị vừa lên xã Vô Tranh, huyện Phú Lương tìm mộ nhà báo Thôi Hữu, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong lúc “trò chuyện” với vong liệt sĩ Thôi Hữu, ông cho biết, quả đồi bên kia có mộ của người anh hùng Lương Ngọc Quyến. Rất tiếc, lúc đó trời đã sâm sẩm tối nên Bích Hằng không sang được.
Lần này, đến gặp Bích Hằng, ông Quân đã tháo bức ảnh cụ Lương Ngọc Quyến mà gia đình đã thờ phụng mấy chục năm nay. Bức ảnh này được chụp lại từ bức ảnh của Sở mật thám Pháp, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng cách mạng Việt Nam. Khi nói chuyện với vong cụ Quyến, chị Hằng nói cụ hiện lên rất rõ, cằm vuông, mắt sáng, đặc biệt là thông tin về phần mộ cụ rất nhiều. Cụ chỉ dẫn: Đi qua cây cầu có tên Rùng Rình thì tạt vào bên phải đường. Qua một thửa ruộng, lên một quả đồi, trên đó có một ngôi nhà ngói. Phía đầu hồi nhà có một bụi tre, một chuồng nuôi gia súc, dưới chân đồi có một cái ao. Giữa bụi tre và ao là một cây bạch đàn lớn mới bị chặt, trên gốc cây vừa nhú lên hai mầm non. Cụ nằm dưới gốc cây bạch đàn ấy.
Bứng gốc cây bạch đàn 
8h ngày 23 tháng 12 năm 2001, chiếc xe Toyota 12 chỗ ngồi xuất phát từ Hà Nội đi Thái Nguyên. Đoàn đi bốc mộ gồm đông đảo con cháu cụ Lương Ngọc Quyến cùng nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và đại tá Hàn Thuỵ Vụ, Phó chủ nhiệm Bộ môn cận tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người). Trước khi đi, thực hiện đúng lời dặn của Bích Hằng, gia đình đã thắp hương trên bàn thờ gia tiên, trình bày toàn bộ sự việc, xin phép lên đón cụ Lương Ngọc Quyến về. Hành trình đi khá thuận lợi. Thông tin kiểm chứng đầu tiên là cây cầu Rùng Rình, vốn trước đó là một cây cầu tre, khi đi qua thì cầu rung rinh, nay mặc dầu đã được bê tông hoá kiên cố song dân địa phương vẫn gọi bằng tên cũ: cầu Rùng Rình. Vị trí hài cốt cụ Lương Ngọc Quyến cũng nhanh chóng được xác định, trùng khớp với những thông tin Bích Hằng cho từ Hà Nội: Nương chè, bụi tre, chuồng gia súc (gia chủ mới dỡ bỏ), ao, gốc cây bạch đàn có hai mầm tái sinh. Chủ của nương chè này là ông Bân, năm nay chừng 50 tuổi, quê gốc Thái Bình, lên đây khai hoang từ cuối những năm 1970. Trước đó hai ngày, ông Quân đã lên đây, trình bày nguyện vọng với UBND xã Vô Tranh và gia đình ông Ban, xin được giúp đỡ. Vì hài cốt của cụ Quyến nằm trên nương chè của ông Bân nên việc khai quật sẽ ảnh hưởng ít nhiều. Ông Bân bảo: “Việc gia đình tìm mộ là việc nghĩa nên cứ thoả mải tiến hành”. Tuy nhiên, buổi sáng hôm đoàn lên khai quật, trong khi bà vợ săng sái đi đun nước, thành kính giúp đoàn lập bàn thờ thắp hương vì tin tưởng vào chuyện tâm linh, vào khả năng tìm mộ đặc biệt của nhà ngoại cảm thì ông chồng cứ chắp tay sau hông đứng nhìn, cười khành khạch, cho đấy là chuyện hoang đường, mê tín dị đoan.
Trước khi khai quật, Bích Hằng thắp hương tại mộ, mời cụ Quyến lên trò chuyện. Điều bất ngờ đầu tiên là vong của cụ bà Nguyễn Thị Hồng Đính cùng các con: Nguyên, Vinh cũng lên theo. Cuộc trò chuyện kéo dài gần hai tiếng đồng hồ trong sụt sùi nước mắt và tiếng cười (đã được gia đình ghi âm và đại tá Hàn Thuỵ Vũ quay phim đầy đủ, nay chất lượng băng còn khá tốt – PV) với rất nhiều thông tin mà gia đình ông Quân, ông Cơ xác nhận sau này là chính xác đến… 100%. Điều ngạc nhiên là có nhiều chuyện rất bí mật, riêng tư, chỉ rất ít người trong gia đình biết mà Bích Hằng cứ nói… vanh vách, khiến cả nhà… choáng. Ví như vừa thấy Bích Hằng reo: “Cụ bà cũng về đấy” đã thấy cụ trách (qua nhà ngoại cảm): “Sáng nay chúng may thắp hương sao không hoá vàng?”. Mọi người hướng sang cô Dung, vợ chú Thắng (em trai ông Quân). Cô Dung bảo: “Trước khi đi, em đã dặn anh Thắng hoá rồi cơ mà?!”. Nói xong, cô rút máy điện thoại di động, điện về nhà. Chú Thắng giật mình bảo: “Chết thật! Sáng anh vội đi dạy học nên quên chưa hoá”. Một lát, cụ bà lại bảo: “Hôm qua, ở quê vui lắm. Xã được tuyên dương anh hùng. Bao nhiêu anh em họ hàng nhà mình đều được nêu danh”. Cả nhà ngớ người, nhớ ra hôm qua (ngày 22 tháng 12 năm 2001), xã Vũ Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình – quê của cụ bà Nguyễn Thị Hồng Đính, vừa tổ chức lễ đón nhận danh hiệu anh hùng thời kỳ chống Pháp. Trong danh sách các anh hùng liệt sĩ có công với nước, có rất nhiều người thân của bà: ông nội là Nguyễn Mậu Kiến (1819 – 1879), thủ lĩnh văn thân chống Pháp ở Thái Bình. Cha là chí sĩ Cần Vương và Duy Tân Nguyễn Hữu Cương (1855 – 1912), cùng đông đảo anh em, cháu, chắt của bà từng được ghi danh trong sách sử của tỉnh.
“Thằng Long đâu rồi, bốc mấy nắm đất trên mộ ông cho bố mày khỏi đau bụng”. Nghe cụ bà gọi, cả nhà lại giật mình. Long là con chú Thắng, mới học lớp một. Thắng bị bệnh thận phải mổ. Vết mổ gần chục năm rồi vẫn cứ rỉ nước vàng, người đau yếu rất khó chịu. Cháu Long vâng lời, làm đúng lời cụ dặn. Chừng một tuần sau, vết thương lành, đến tận những ngày này (tháng 10 năm 2006) vẫn chưa thấy hiện tượng gì, trong khi trước đó, Thắng chạy khắp các bệnh viện, gõ cửa nhiều giáo sư, bác sĩ, thầy lang mà không khỏi.
Bích Hằng reo: “Ông Nguyên cũng lên đây này”. Ông Nguyên là con cả của cụ Lương Ngọc Quyến. Ông Nguyên bảo: “Thằng Chính mua cho tao cái vé máy bay để tao vào Sài Gòn chơi”. Chính nghe vậy, bưng mặt khóc tu tu. Chính là con ông Vinh, cháu gọi ông Nguyên là bác ruột, hiện lập nghiệp trong Sài Gòn. Khi còn sống, ông Nguyên luôn muốn vào Sài Gòn chơi với họ hàng, bạn bè, con cháu. Nhưng vì ông to béo, lại già yếu, nhiều bệnh tật, chuyện sinh hoạt cá nhân còn không tự làm được thì đi làm sao? Có lần, ông bí mật mua vé máy bay định trốn vào Sài Gòn chơi, may con cháu phát hiện ra kịp thời ngăn cản. Anh Chính bảo: “Chuyện này chỉ những người thân trong gia đình tôi biết và đã xảy ra từ 20 năm trước, cô Hằng không thể biết được”. Anh Chính hỏi Bích Hằng: “Cô thấy ông Nguyên hình dáng thế nào?”. Bích Hằng cười, bảo: “Ông lão to lớn, râu dài bạc phơ, mắt lúc nào cũng cười”. Anh Chính xác nhận, rất đúng với vóc dáng và tính cách của ông Nguyên.
Cuộc gặp gỡ, trò chuyện kéo dài đến 12 giờ trưa. Cụ Lương Ngọc Quyến vội giục: “Các cháu mau căng bạt che nắng để chuẩn bị đào. Xương cốt ông còn rất ít. May ra có thể thấy cái cùm sắt vì khi giam ông, giặc Pháp đã cùm ông rất chặt, xiên cả dây thép qua chân nên không tháo ra được. Khi chôn, ông nằm nghiêng, chân co, lưng quay về chân đồi. Rễ cây bạch đàn ăn vào chân ông khiến ông rất đau. Chính ông làm cho nó chết. Lát nữa, có nhiều nghĩa quân khởi nghĩa năm xưa đến đây để tiễn đưa ông. Các cháu nhớ nấu cho ông nồi cháo to để ông chiêu đãi quân sĩ”.
Việc đầu tiên là phải bứng gốc cây bạch đàn có đường kính hơn 30cm lên. Khi gạt hết phần đất mượn do trong quá trình làm nương, chủ nhà đã san lấp bớt cho đỡ dốc, đến phần đất cũ độ 20cm, Bích Hằng gạt mọi người ra, bảo: “Sắp đến hài cốt của cụ rồi. Cháu phải trực tiếp xuống vì mọi người không biết đâu mà xác định. Cụ bảo: đầu cụ là chỗ chú Tiến đứng (Tiến là anh ruột ông Quân). Chân cụ là nơi  chú Chính đứng”. Cả nhà lại một lần nữa bị bất ngờ vì trước đó, không ai nói tên Tiến và Chính cho Bích Hằng biết. Tiếp xúc với Hằng, từ trước đến nay chỉ có 3 người: ông Quân, ông Cơ và cô Phấn (em gái ông Cơ).
Từ trái qua phải: Ông Lương Cơ, Lương Quân, cô Lương Phấn
Sau khi gạt thêm một vài lớp đất mỏng, Bích Hằng reo khẽ: “Cốt cụ đây rồi”. Trăm con mắt đều nhìn xuống hố, thấy rõ hình hài một bộ xương người trong tư thế nằm nghiêng, chân co lại. Xương ống đùi, cẳng chân với các đầu xương phình to hằn rõ trên nền đất. Phần ngực có rất nhiều bột trăng trắng, trong khi xung quanh là đất đen pha đá dăm. Bích Hằng dặn: “Cốt cụ vì chôn quá lâu, lại chẳng có hòm ván gì cả nên tan ra hết. Cụ dặn các chú nhớ bốc những đất lẫn cốt đem về để táng”.
 Xương cốt cụ Quyến lẫn vào trong đất cát
Trong khi ông Quân, ông Cơ đang cặm cụi nhặt từng mẩu xương cùng đất vụn cho vào bọc vải đỏ thì trong sân, ông chủ nhà  mắt tái xanh, hốt hoảng chạy vào nhà thắp hương lạy như tế sao. Thấy lạ, chị Phấn mới kéo bà vợ ra hỏi nhỏ. Chị vợ cười, bảo: “Nhà em từ xưa đến nay không bao giờ tin vào chuyện vong hồn, thần thánh. Ngày hôm kia, khi bác Quân lên đây, có một đàn chim về rất đông, hót ríu ran trên bụi tre. Đêm qua, đột nhiên nhà em nằm mơ, thấy ở chỗ gốc cây bạch đàn có một vật đen tròn. Nhà em bèn vác cuốc ra cuốc hối hả chỗ ấy, rồi nghe thấy tiếng người bảo: ngày mai, con cháu tôi sẽ lên đón tôi về. Choàng tỉnh giấc, nhà em liền kể ngay với em song lại bảo: Chắc là tại ngày tôi nghĩ nhiều nên đêm mới mơ như vậy. Định bụng, cứ để mọi người xem thế nào. Nay, thấy mọi việc diễn ra đúng như trong mơ nên ông ấy mới sợ, vội vã thắp hương để tạ lỗi với cụ. Chứ từ ngày lấy nhà em, có bao giờ thấy ông ấy cúng vái bao giờ đâu”.
Sau khi công việc đã hoàn tất, nhìn sang quả đồi bên cạnh, cách chỗ vừa khai quật vài thửa ruộng, ông Quân thấy một tốp thợ đang đục đẽo gỗ để dựng nhà. Hỏi vợ anh Bân, được biết, thôn Thống Nhất đang dựng lại ngôi chùa trên nền cũ. Ông Quân cầm thẻ hương sang thì nhận ra, đó chính là ngôi chùa ông đã từng lên thắp hương, bát hương ngày ấy được đặt tạm lên cây ngái giữa bạt ngàn nương sắn. Ông chợt giật mình, nhớ lại cách đây 8 năm, Bích Hằng đã cho thông tin mộ cụ được đặt gần một ngôi chùa và băn khoăn không hiểu vì sao, trước khi mất, cha ông cũng dặn chắc như đinh đóng cột như thế?
Chi tiết cái cùm ở chân cụ Quyến, Bích Hằng nói “có thể còn” nhưng lúc đào lên không thấy. Tuy nhiên, tại khu vực phía chân cụ, mọi người thấy một vết đất vàng vàng như rỉ sắt. Có thể, trải qua hơn 80 năm mưa nắng, chiếc cùm sắt đã rỉ tiêu hết cả rồi?
Chiều ngày 23 tháng 12 năm 2001, tức mồng 9 tháng 11 năm Tân Tỵ, tại xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, lễ truy điệu và an táng nhà yêu nước Lương Ngọc Quyến đã được Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận tổ quốc và nhân dân xã cùng các thế hệ con cháu nội ngoại của ông long trọng tiến hành. Trên bia mộ ông, trân trọng đề dòng chữ: “Cụ ông Lương Ngọc Quyến (1885 – 1917), lãnh tụ khởi nghĩa Thái Nguyên”. Bên cạnh là bia mộ của bà Nguyễn Thị Hồng Đính. Phía trên, giữa hai bia là phù điêu tạo hình lá quân kỳ nền đỏ năm sao trắng của Việt Nam quang phục quân.
Như vậy, trải qua 84 năm đằng đẵng, cả hai thế hệ con, cháu cất công tìm kiếm, di hài của người anh hùng Lương Ngọc Quyến đã được an nghỉ tại quê nhà. Người hạnh phúc nhất có lẽ là ông Lương Quân. Bởi việc tìm được phần mộ ông nội Lương Ngọc Quyến vừa là việc hiếu đễ với tổ tiên, vừa trút được nỗi canh cánh nặng trĩu trong lòng người cha thân yêu suốt một đời đau đáu. Duy có một điều làm ông còn day dứt, khiến niềm vui kia của ông chưa trọn vẹn. Đó là phần mộ của người anh hùng Đội Cấn, vị lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm xưa, người bạn chiến đấu của cụ Lương Ngọc Quyến vẫn còn vùi lấp đâu đó trên những đồi núi điệp trùng Thái Nguyên. Hôm lên Vô Tranh đưa hài cốt cụ Quyến về quê nhà, qua Bích Hằng, được biết cụ Đội Cấn có đến chia vui và tiễn biệt người bạn. Lúc đó, cụ Đội Cấn có nhắn qua Bích Hằng vị trí nơi chôn cất. Sau này, khi đài báo đưa tin đã tìm được mộ cụ Lương Ngọc Quyến, có một vị cao niên nhận là cháu cụ Đội Cấn, tìm về Nhị Khê thắp hương. Song rất tiếc, gia đình ông Lương Quân không được gặp và vị khách ấy cũng không để lại địa chỉ. Nay, qua Thế giới mới, anh em ông Lương Quân xin nhắn nhủ: nếu con cháu cụ Đội Cấn đọc được những thông tin này và muốn tìm hài cốt cụ, xin vui lòng liên lạc với ông theo địa chỉ: Lương Quân, số 9 Núi Trúc, quận Ba Đình, Hà Nội. Điện thoại: 04.8464679.
Theo Hoàng Anh Sướng's webblog










-----------------------------------------------------------------

Truyện thứ ba





Kỳ 9: Tìm mộ vị lãnh tụ nông dân Hoàng Công Chất
Hành trình đi tìm mộ người anh hùng nông dân Hoàng Công Chất đợt đầu năm 2005 có lẽ ám ảnh chị nhiều nhất. Đó không chỉ là sự ám ảnh bởi sự linh ứng đến kỳ lạ giữa cõi vô hình và hữu hình, giữa cõi âm và dương mà đó còn là sự chắp nối kỳ diệu của rất nhiều chi tộc dòng họ Hoàng sau hơn hai trăm năm dâu bể.
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng






       Trong suốt hành trình 15 năm phát tâm nguyện đi tìm những ngôi mộ bị thất lạc giúp đời, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, bằng khả năng đặc biệt, đã tìm được khoảng 7.000 hài cốt, trong đó phần lớn là hài cốt liệt sĩ. Đó thực sự là một kỳ tích,  đem lại niềm hạnh phúc nghẹn ngào cho hàng vạn người sau nhiều năm đỏ mắt mỏi mòn ngóng trông. Với chị, mỗi chuyến đi là một kỷ niệm. Mỗi cuộc tìm kiếm hài cốt là cả ngàn những tình tiết ly kỳ, xúc động, huyền bí không thể nào quên. Nhưng, hành trình đi tìm mộ người anh hùng nông dân Hoàng Công Chất đợt đầu năm 2005 có lẽ ám ảnh chị nhiều nhất. Đó không chỉ là sự ám ảnh bởi sự linh ứng đến kỳ lạ giữa cõi vô hình và hữu hình, giữa cõi âm và dương mà đó còn là sự chắp nối kỳ diệu của rất nhiều chi tộc dòng họ Hoàng sau hơn hai trăm năm dâu bể.
   Từ lời sấm truyền trong dòng họ
       Một buổi chiều đầu tháng giêng năm 2005, có hai người khách lạ tìm đến nhà Phan Thị Bích Hằng. Người đàn ông mặc bộ Veston chừng 45 tuổi, mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Người phụ nữ đi cùng trạc 40, mặt trái xoan, dáng người thanh mảnh, quyền quý. Người đàn ông tự giới thiệu, anh là Hoàng Văn Khánh, chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Tổng giám đốc công ty Placo và em gái Hoàng Thị Sáu, quê Hải Phòng. Sau một chút bối rối, anh trình bày những uẩn khúc, trăn trở bao năm đè nén trong lòng khiến tâm bất an. Anh kể: Từ hồi còn nhỏ, anh đã từng nghe cha chú, trong nhịp dịp chén thù chén tạc, rung đùi vuốt râu tự hào về dòng dõi, tổ tiên. Nghe đâu, cụ tổ anh là thủ lĩnh nghĩa quân chống lại triều đình Lê – Trịnh. Năm 1770, linh cảm về một ngày đen tối đang đến gần, cụ cho người đưa 3 cháu nội về tổng Cổ Trà Nghi Dương (nay là thôn Ngọc Tỉnh, xã Tân Trào, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng) những mong bảo tồn nòi dống. Có một câu sấm truyền từ đời nọ đến đời kia trong dòng họ Hoàng: “Bao giờ phát phú phát vương. Tầm lại cố hương. Bái tạ tiên đường. Nơi đó có chữ Hoàng gia đại tộc”. Sau này, trước lúc lâm chung, cha anh, rồi người chú ruột, cứ níu chặt tay anh mà dặn dò: “Con gắng tìm cội nguồn tiên tổ”. Lời trăn trối ấy cứ ám ảnh anh Khánh. Có uẩn khúc gì trong lời nói, tự sâu thẳm ánh mắt của cha?





Anh Hoàng Văn Khánh đang thắp hương trước tượng cụ Hoàng Công Chất







       Khi trở thành một doanh nhân thành đạt ở Hải Phòng, ngẫm về lời sấm truyền tụng bao đời: “Bao giờ phát phú phát vương”, nhớ đến ánh mắt như van vỉ của cha trước lúc đi xa, anh Khánh quyết chí đi tìm tổ tiên dòng họ. Anh đi khắp nơi, ở đâu có đền thờ họ Hoàng là tìm đến nhưng mãi vẫn không thấy chữ “Hoàng gia đại tộc”, thấy cội nguồn tổ tiên. Một lần về Nam Định công tác, gặp một nhà nghiên cứu văn hóa lão thành, anh trải nỗi lòng mình. Nghe xong, nhà nghiên cứu cười khà: “Có lẽ, cụ tổ họ Hoàng đã run rủi ta làm sứ giả cho anh đây. Anh hãy về thôn Hoàng Xá, xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình xem. ở đó, có nhà thờ dòng họ Hoàng Văn to lắm”. Vâng lời, anh Khánh tìm đường về Nguyên Xá, xin được vào thắp hương nhà thờ họ Hoàng. Anh chợt run bắn người khi nhìn thấy bức hoành phi treo chính giữa ban thờ với bốn chữ đại tự viết bằng chữ thảo: “Hoàng gia đại tộc”. Và oà khóc nức nở khi lật giở cuốn gia phả đã ố màu thời gian, thấy ghi chi tộc họ Hoàng Văn ở Hải Phòng. Té ra, cụ tổ của anh chính là người anh hùng nông dân Hoàng Công Chất. Cụ sinh ra tại Thủ Trì, Sơn Nam, nay là Hoàng Xá, Nguyên Xá, Vũ Thư, Thái Bình. Cụ là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra năm 1739 cùng hai cuộc khởi nghĩa lớn khác của cụ Nguyễn Hữu Cầu (tức Quận He) và cụ Lê Duy Mật.
       Nhưng mộ phần cụ Hoàng Công Chất ở đâu? Các con cháu cụ lưu lạc nơi nào? Đã rất nhiều năm anh Khánh cất công đi tìm kiếm di hài của cụ Hoàng Công Chất và mong muốn dựng lại hoàn chỉnh sơ đồ phả tộc mà không thành. Tình cờ, một lần, anh được đọc một tập tài liệu viết về hành trình đi tìm người em gái, vốn là một nữ du kích gan dạ của đội Hoàng Ngân năm xưa, của nguyên Phó thủ tướng chính phủ Trần Phương, dưới sự chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, đặc biệt là khả năng gọi hồn của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng (Chuyện sẽ kể chi tiết ở phần sau – PV) với rất nhiều tình tiết ly kỳ, huyền bí. Điều đó, thôi thúc anh tìm gặp Bích Hằng, nhờ chị tìm hộ di hài tiên tổ và các chi tộc bị thất lạc.
       Ba ngày sau. Vào một đêm mưa dầm sùi sụt, rét cắt da cắt thịt, vừa chợp mắt được một lát, Bích Hằng chợt nghe thấy tiếng vó ngựa, tiếng gươm khua. Chaỵ ra sân mở. Chị giật mình khi thấy trước mặt là một người đàn ông quắc thước, da nâu, trống gươm đứng nhìn chị. Quan sát kỹ, thấy trang phục, tướng mạo đúng là một võ tướng. Xung quanh, có rất nhiều binh lính. Võ tướng cười, bảo: “Cháu đừng sợ. Ta là võ tướng họ Hoàng. Còn đây là quan quân của ta. Cháu đi về với ta đi. Con cháu ta đang mong đợi cháu từng ngày”. Nói đoạn, ông lên ngựa đi. Hình bóng khuất xa rồi mà tiếng cười hiền hậu còn vang mãi.
       Bích Hằng choàng tỉnh. Chị sực nhớ đến chiếc các-vi-dít mà hai người khách họ Hoàng ở Hải Phòng để lại chiều hôm nọ. Đọc kỹ, thấy ghi: Hoàng Văn Khánh. Tổng giám đốc Công ty Placo. Trụ sở: Km5, đường Phạm Văn Đồng, Anh Dũng, Kiến Thuỵ, Hải Phòng. Điện thoại: 0913.24004. Bên tai chị lại văng vẳng lời nhờ cậy thiết tha của vị võ tướng họ Hoàng. Sáng sớm hôm sau, chị chủ động điện thoại cho anh Khánh, hẹn ngày 16 tháng giêng (âm lịch), chị sẽ xuống Hải Phòng tìm giúp.
   Đến những tín hiệu cho trước
       Đúng hẹn, sáng ngày 16 tháng giêng, Bích Hằng có mặt tại nhà thờ họ Hoàng ở xã Tân Thành, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng. Đi cùng chị hôm đó, còn có nhà nghiên cứu Quan Lệ Lan, thư ký của Bộ môn cận tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người). Trước sự chứng kiến, thành tâm của đông đảo con cháu họ Hoàng, Bích Hằng đã vời vong linh của cụ Hoàng Công Chất về trò chuyện. Qua Bích Hằng, cụ bảo: “Những người đi theo triều đình thì coi ta là giặc cỏ. Nhưng nhân dân lại coi ta là anh hùng. Ta vẫn thích sống trong lòng dân hơn. Còn với các con các cháu, ta là giặc cỏ hay anh hùng, điều đó ta không cần quan tâm nữa. Chỉ biết rằng ta là cụ tổ của các con. Trước kia, ta đã cùng các tù trưởng Lò Ngải, Lò Khanh, Lò Thang đánh giặc giữ biên thuỳ. Nay ta đang ở đất châu Điện Biên. Đáng khen các con đã làm được những việc khiến ta thấy được an ủi nơi chín suối, mát mặt với tướng sĩ ba quân”. Anh Khánh chắp tay thành kính, giọng run run: “Thưa tổ! Xin tổ cho chúng con biết, hiện giờ mộ tổ ở đâu”. Cụ Hoàng Công Chất nói (qua Bích Hằng): “Các con cứ lên Thành Bản Phủ. Cứ nơi nào trồng cây đa là có nghĩa quân của ta. Trước kia, nhà Lê Trịnh đã cho quân khai quật mộ ta rồi chặt làm 3 khúc. (Chuyện này, chính sử cũng có nhắc đến). Chân ta, chúng ném xuống sông Nậm Rốn. Đầu, thân thì vứt lăn lóc. Đêm, nghĩa quân của ta lén đi lấy. Thân thì chôn ở gần sông Nậm Rốn nhưng cách đây ít năm, người ta đã ủi đi rồi. Đầu thì vác về gần Thành Bản Phủ, chôn dưới một gốc cây đa. ở đó có một cây thuốc. Khi các con đi tìm ta, sẽ có một người răng vổ gốc Thái Bình ra dẫn đường”.
       Đang “thông dịch” cho mọi người nghe, bất chợt, Bích Hằng nhìn thấy một thiếu phụ trẻ người Thái, đứng cạnh cụ Hoàng Công Chất bưng mặt khóc. Lấy làm lạ, Bích Hằng hỏi, cụ Chất bảo: “Đây là liệt nữ Lò Thị Nương, con một vị tù trưởng ở Điện Biên”. Xưa, nàng đi theo cha đánh giặc, cảm phục tài đức của tướng Hoàng Công Chất, nàng tình nguyện làm vợ thứ 4. Sở dĩ cụ Chất gọi bà là liệt nữ vì bà đã hy sinh cho nghĩa quân. Chuyện rằng: trong một lần bị giặc Phẻ truy kích, bà cùng con trai là Hoàng Công Trực đã đánh lạc hướng cho nghĩa quân rút lui. Bắt được hai mẹ con, giặc đã đem bà ra làm mồi nhử. Chúng trói hai người vào chiệc cột gỗ chôn giữa đồng Tông Khao, xung quanh chất củi cao ngập đầu. Nếu tướng Hoàng Công Chất muốn chuộc vợ, con thì phải mở cổng thành. Bằng không, chúng sẽ thiêu cháy. Từ dưới đồng, bà Lò Thị Nương thét to: “Không được mở cổng thành”. Lửa cháy ngùn ngụt. Hai mẹ con bà bị thiêu chết. Xót thương người vợ hiền, cụ Chất cho trồng một cây đa trên mộ nàng. Nơi đây bốn mùa hoa nở. Hoa vàng và hoa đỏ. Cụ bảo: “Đó là những tín hiệu ta cho để các con đi tìm mộ. Khi đi, sẽ có một phụ nữ dân tộc Thái dẫn đường”.
Đi tìm di hài tổ tiên: sự linh ứng đến kỳ lạ
       Một tháng sau ngày chiêu hồn cụ Hoàng Công Chất tại nhà thờ họ Hoàng ở Hải Phòng, sáng ngày 29 tháng 3 năm 2005, khoảng 50 người, già trẻ, gái trai đủ các chi ngành cùng nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng lên Điện Biên tìm mộ. Thành Bản Phủ là nơi đoàn đặt chân đầu tiên. Những nghi lễ trang trọng nhất đã được cử hành tại đây. Ông trưởng chi Hoàng Văn Nhương thành kính dâng sớ, cầu xin tổ tiên linh hiển, báo cho con cháu biết nơi tổ yên nghỉ để con cháu được tu sửa, thờ vọng. Lời khấn vừa dứt, sớ chưa kịp hoá bỗng một cơn gió lớn từ đâu ào đến. Và những thanh âm nghe “lách cách, lách cách” như hàng ngàn tiếng gươm khua khiến cả đoàn, đang thành kính chắp tay làm lễ đồng loạt quay lưng lại phía sau. Lại một cơn cuồng phong cuốn bụi mịt mù. Mọi người hốt hoảng chạy ra sân. Một cảnh tượng lạ lùng đập vào mắt khiến khiến tất cả đứng chết lặng: nền sân gạch đỏ giờ ngập tràn lá xanh. Có những chiếc lá còn non tơ. Tịnh không có một chiếc lá vàng nào. (Giữa xuân, kiếm đâu ra lá vàng?!). Đó là lá của ba cây đa, si, xanh quấn quýt trước đền trút xuống, tương truyền, do chính tay cụ Hoàng Công Chất trồng, như một lời nguyền với non sông giữ tình đoàn kết giữa miền xuôi và miền ngược, thề đòi lại và giữ yên biên cương đất nước. Cây đa là cụ. Cây đề là trời đất. Còn cây si loà xoà gốc rễ là dân tộc Thái. Qua Bích Hằng, cụ bảo, đấy là cụ khóc mừng khi thầy tề tựu đầy đủ con cháu trai gái, dâu rể… lên với tổ. Cụ bảo: Cụ có 4 anh em là Hoàng Văn Phiệt, Hoàng Văn Phí, Hoàng Công Chất và Hoàng Công Tại. Cụ có 3 vợ và có nhiều con. Hoàng Công Toản là con cả. Kế tiếp là Chính, Châu, Thao, Tần, Toản, Túc, Lựu  (Trùng khớp với gia phả – PV). Năm 1768, nghĩa quân của cụ bị quân của triều đình nhà Lê – Trịnh đánh tan tác. Con cháu cụ phải chạy ra bản Loong Luống. Hiện vẫn còn ở đấy. Tiên lượng về một ngày đen tối sẽ đến, để bảo tồn nòi giống, cụ cho người em gái là Hoàng Thị Chiên dẫn 3 đứa cháu nội là Cao, Tháo, Thọ về quê, cầu cứu nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu (tức Quận He). Trong 3 đứa cháu, Tháo là người có chí nhất. Tháo lúc ấy còn bé lắm. Cụ trao cho Tháo một áo bào tía, một thanh gươm rồi bảo: “Con hãy giữ làm vật tin để dâng lên tướng Nguyễn Hữu Cầu”. Tháo cầm lấy thanh gươm từ tay ông nội. Thanh gươm cao hơn đầu, ôm lấy túi áo bào, vừa khóc vừa nói: “Ông ơi! Cháu sẽ khôi phục lại sự nghiệp của ông”. Nói đến đây, cả nhà anh Khánh khóc ầm lên. Cháu Tháo bé bỏng mà đầy chí khí ngày ấy chính là hậu tổ của anh Khánh. Trong gia phả ghi rõ: Cụ hậu tổ là Hoàng Quí Công, tự Công Tháo”. Anh Khánh vừa khóc vừa kể: Lúc còn sống, cha anh lúc nào cũng giữ khư khư một cái bọc, trong có chiếc áo bào tía và một thanh gươm. Một lần hoả hoạn, chiếc áo bào cháy mất. Cha anh khóc ròng mấy tháng trời vì tiếc. Đó là đồ gia bảo. Cha còn quý hơn cả tính mạng mình.
       Sau một hồi làm con cháu trấn tĩnh, cụ Chất bảo: “Thôi! Giờ để ta hướng dẫn các con đến những nơi tổ yên nghỉ”. Cả đoàn bước ra khỏi đền. Từ trên cao phóng tầm mắt ra bốn hướng, anh Khánh reo to: “Cây đa cổ thụ kia rồi”. Nhìn theo phía tay anh chỉ, cách chỗ đứng chừng 500m, thấy một cây đa cổ thụ xoè bóng mát giữa trưa nắng vàng.





Mộ cụ Hoàng Công Chất nằm dưới gốc cây đa







       Khánh phăm phăm dẫn đường. Bích Hằng vô cùng ngạc nhiên. Thấy vậy, mọi người mới kể: Cách đây chừng 10 năm, anh Khánh nằm mơ thấy tổ về chỉ đường cho tìm mộ. Tỉnh dậy, anh có kể lại cho gia đình và vẽ lại sơ đồ. Không ngờ, hôm nay, thấy thực địa diễn ra đúng như trong giấc mơ ấy nên anh mới thông thạo đến vậy. Lúc ấy, Bích Hằng mới ngả ngửa người. Chưa hết ngạc nhiên. Khi cả đoàn đứng trước đống mối lớn, dưới gốc đa cổ thụ chừng 200 năm tuổi, Bích Hằng vừa xác định: “đúng mộ cụ đây rồi” thì bất ngờ, từ đâu xuất hiện một người đàn ông răng vổ, bảo: “Đi tìm mộ cụ Hoàng Công Chất phải không? Tôi là Nguyễn Văn Nhân, quê Thái Bình lên đây lập nghiệp lâu rồi. Trước đây, tôi nghe các cụ già ở đây bảo: đây là nơi quân sĩ chôn một phần thi hài của cụ Chất đấy”.




Người đàn ông răng vổ







       Như vậy, tín hiệu mà Bích Hằng cho từ Hải Phòng cách đây chừng một tháng: gốc đa cổ thụ, người đàn ông răng vổ quê Thái Bình, đã có kiểm chứng. Nhưng còn tín hiệu thứ 3: cây thuốc? Nhìn khắp lượt, chỉ thấy một cây hoa trắng, gốc cây bị vạc hết vỏ. Hỏi ông Nhân, ông cười bảo: “Cây này chữa sâu răng tốt lắm. Tước một ít vỏ, nhét vào chỗ sâu răng. Ngậm chừng 2-3 lần là khỏi”. Mọi người thở phào.
       Cả đoàn lên bản Tông Khao tìm mộ cụ Lò Thị Nương. Hoa tiêu là một chị người Thái ở Chi hội phụ nữ Điện Biên. Xe ô tô chạy rì rì trên con đường đất đỏ, hai bên là ruộng lúa xanh rờn. Đến gần một cái ao, bỗng anh Khánh hô: “Dừng xe lại! Cụ kia rồi”. Vừa xuống xe, anh Khánh lao thẳng vào con đường bé xíu, ngoằn nghèo chuột chạy. Chạy đến lúc bở hơi tai thì dừng lại dưới một gốc đa cổ thụ. Chưa kịp định thần thì cả đoàn chết lặng: Trên thảm cỏ xanh rì, cả một bụi hoa loa kèn đỏ rực còn long lanh hạt sương sớm. Bên cạnh có một cây si, quả to như ngón chân cái, vàng rượi từ gốc đến ngọn.
Khóm hoa loa kèm đỏ trêm mộ Bà Lò Thị Nương
       Cả nhà đang thắp hương xì xụp khấn vái thì có một người phụ nữ Thái đi làm đồng, bước lại hỏi: “Chúng mày vào đây để làm gì? ở nơi này, ngày xưa có một cái miếu thờ, có 3 bát hương. Song chỉ có họ Lò mới được vào đây cúng. Còn các họ khác chỉ đứng ngoài xem thôi. Sau này giặc phá hết. Miếu này thiêng lắm đấy”. Nghe vậy, anh Khánh lại khóc oà.





Người đàn bà Thái
  



 Cuộc hội ngộ của các chi tộc họ Hoàng



       Tìm được mộ tiên tổ, ước nguyện của anh Khánh đã hoàn thành được một nửa. Nhưng còn các chi tộc họ Hoàng khác? Nhớ đến lời kể của cụ Chất về cuộc chạy loạn của dòng họ Hoàng lên bản Loong Luống năm 1768, anh Khánh quyết định sáng hôm sau đi tìm. Hỏi thăm dân bản, họ bảo: Có bản Loong Luống. Nhưng trước bị lũ lụt nên dân đi hết rồi. Cứ tìm nhà nào họ Hoàng thì vào. Một gợi ý hay nhưng khác nào mò kim đáy bể. Đành nhờ cậu bí thư đoàn xã dẫn đường. Vào nhà họ Hoàng thứ nhất. Cả đoàn không có cảm giác gì. Hỏi quê, đúng Thái Bình. Hỏi ông nội là ai? Không biết. Hỏi bố đẻ là ai? Cũng không biết nốt. Đến nhà họ Hoàng thứ hai, ông Quàng Lả. Vừa thấy anh Khánh bước vào, hai vợ chồng đon đả chạy ra, tay bắt mặt mừng như người thân lâu ngày gặp lại. Linh cảm gì chăng? Ông Quàng Lả tự hào kể: “Các cụ ngày xưa khai thiên lập ấp ở dưới Loong Luống kia kìa. Ông cha ở đấy lâu lắm rồi. Lũ lụt mới chuyển lên đây”. Anh Khánh hỏi: “Sao ông lại là họ Quàng?”. Ông Lả lại cười: “Tao họ Hoàng đấy. Nhưng tiếng Thái, lúc Quàng, lúc Hoàng. Mà này, tao có một thằng cháu họ Hoàng, làm cán bộ tỉnh to lắm. Là cháu nhưng nó hơn tuổi tao nhiều. Nó tên là Xuyên. Nó có cả gia phả đấy”.
       Thì ra là ông Hoàng Xuyên, nguyên Phó bí thư tỉnh uỷ Điện Biên. Tìm đến nhà ông Xuyên, anh Khánh xúc động quá. Vốn hàng ngày là người hoạt ngôn mà nay, ngồi trước ông Xuyên cứ lúng búng như gà mắc tóc. Bích Hằng phải trình bày dùm hoàn cảnh, mục đích cuộc gặp gỡ. Hỏi về cuốn gia phả họ Hoàng, lúc đầu ông Xuyên lắc đầu nguây nguẩy: “Tôi đâu có. Đâu biết”. Trong khi bà vợ ngồi cạnh lại cứ tủm tỉm cười, huých nhẹ khuỷu tay vào chồng: “Kìa anh! Đưa cho các cô chú xem đi. Cuốn gia phả dưới hầm ấy”. Đến nước này thì không thể chối được nữa. Ông Xuyên thú nhận: Đúng là trước kia, nhà ông có một cuốn gia phả viết bằng chữ Hán. Tổ tiên ông chính là tướng quân Hoàng Công Chất. Đợt cải cách ruộng đất, sợ bị kết tội là con cháu Then, Phìa thì bị giết cả nhà nên ông nội phải cất dấu dưới hầm. Hồi đi học Trung Quốc về, ông đã đem đốt đi. Ông kể, ngày trước, ở Đền Bản Phủ, mỗi khi đến ngày giỗ cụ Hoàng Công Chất, chỉ mình ông nội được ra lễ. Ông mặc áo vàng, cưỡi ngựa, có lọng che đầu. Hàng chục người hầu đội lễ rất to. Bây giờ Bảo tàng văn hoá còn lưu bức ảnh này. Nói đoạn, ông Xuyên và anh Khánh ôm choàng lấy nhau, khóc nấc lên. Thôi, đúng chúng ta là anh em rồi. Về tuổi tác, ông Xuyên gần gấp đôi tuổi anh Khánh. Nhưng về vai vế dòng họ, cả hai đều là cháu đời thứ 8 của cụ Hoàng Công Chất.
       Ngày giỗ của cụ Hoàng Công Chất năm nay, chưa bao giờ con cháu lại tề tựu đông đủ đến thế. Chi tộc họ Hoàng ở Điện Biên về. Chi tộc họ Hoàng ở Hải Phòng xuống. Cùng chi tộc họ Hoàng ở Thái Bình. Tất cả, đều một lòng thành kính hướng về cội nguồn, tiên tổ. Bữa cơm đoàn tụ hôm ấy, đầy ắp tiếng cười và cả những giọt nước mắt hạnh phúc tuôn rơi…



-------------------------------------------------


Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen